Mô tả Vi hiếp

Các hành vi vi hiếp thường có tính phổ biến hàng ngày liên quan đến các sự khác nhau về bản sắc cá nhân của một người như giới tính, xu hướng tính dục, chủng tộc, dân tộctuổi tác, cùng các khía cạnh khác. Chúng được cho là bắt nguồn từ những định kiến và niềm tin trong đời sống hằng ngày, có thể được thể hiện thông qua các tương tác bằng lời nói hàng ngày một cách cố tình hoặc vô ý.[10] Mặc dù những tương tác này thường có vẻ vô hại, nhưng chúng được coi là một hình thức phân biệt chủng tộc hoặc phân biệt đối xử hằng ngày.[11] Hầu hết các nạn nhân bị kỳ thị đều thường xuyên trải qua các hành vi vi hiếp. Điều này có thể gây ra sự căng thẳng tột độ cho các nạn nhân vì họ dễ dàng bị chối bỏ bởi những người gây ra hành vi vi hiếp. Trong môi trường văn hóa thống trị,[12] các thành viên trong nhóm "chủ đạo" cũng khó xác định đâu là hành vi vi hiếp bởi họ thường không nhận thức được rằng mình đang gây hại cho người khác.[13] Derald Wing Sue mô tả hành vi vi hiếp bao gồm các tuyên bố lặp lại hoặc khẳng định định kiến về nhóm thiểu số hoặc hạ thấp các thành viên trong nhóm thiểu số một cách tinh vi.

Theo đó, vi hiếp thường tồn tại dưới ba dạngː[1][12]

  • Tấn công vi mô (microassault): những hành động tấn công, công kích ở cấp độ vi mô là lời nói, lời lăng mạ và hành động đối với người thiểu số. Ví dụː gọi tên, có hành vi tránh né hay hành động phân biệt đối xử có mục đích.
  • Lăng mạ vi mô (microinsult): truyền đạt sự thô lỗ và thiếu tế nhị và hạ thấp nhận dạng của người thiểu số; có những lời dè bỉu ngầm hay tin nhắn ẩn danh xúc phạm nạn nhân.
  • Phủ nhận vi mô (microinvalidation): loại trừ, phủ nhận trải nghiệm phân biệt đối xử của người thiểu số.

Tuy nhiện, một số nhà tâm lý học đã chỉ trích lý thuyết về vi hiếp vì cho rằng tất cả sự xúc phạm bằng lời nói, hành động trong các bối cảnh môi trường khác nhau là do thiên kiến.[14][15]

Các thể loại vi hiếp

Khi tiến hành nghiên cứu tập trung hai nhóm người Mỹ gốc Á, Sue đã đề xuất tám chủ đề khác nhau về hành vi vi hiếp về chủng tộc:[16]

  • Người ngoài trên chính mảnh đất của họ (Alien in own land)ː Khi người khác màu da là cho là người nước ngoài. Ví dụː "Vậy bạn thực sự đến từ đâu?" hay "Tại sao bạn không nói giọng đặc trưng của bạn?"
  • Quy chụp về sự thông minhː Khi người khác màu da bị rập khuôn để có một mức độ thông minh nhất định dựa trên chủng tộc của họ. Ví dụː "Những người như bạn luôn học giỏi" hay "Nếu tôi thấy có nhiều sinh viên gốc Á trong lớp của tôi, tôi biết là lớp này sẽ rất khó."
  • Từ chối thực tế chủng tộc: Khi mọi người nhấn mạnh rằng một người khác màu da không bị phân biệt chủng tộc hoặc bị đối xử bất bình đẳng.
  • Định kiến hóa vẻ ngoài của phụ nữ khác màu da: Khi phụ nữ không phải là người da trắng bị định kiến ​​là "kỳ lạ" dựa trên giới tính, ngoại hình và mong muốn của giới truyền thông.
  • Từ chối thừa nhận sự khác biệt trong nội bộ sắc tộc: Khi người nói bỏ qua sự khác biệt trong nội bộ sắc tộc và thừa nhận sự đồng nhất rộng rãi giữa nhiều nhóm dân tộc. Ví dụː Những mô tả như "tất cả người Mỹ gốc Á đều giống nhau" hoặc giả định rằng tất cả những người của một dân tộc thiểu số nói cùng một ngôn ngữ hoặc có cùng các giá trị văn hóa.
  • Bệnh lý hóa các giá trị văn hóa hay phong cách giao tiếp: Khi nền văn hóa và giá trị của người Mỹ gốc Á được coi là kém cỏi. Ví dụː Việc coi sự im lặng (một chuẩn mực văn hóa hiện diện ở một số cộng đồng châu Á) là một điều xấu, dẫn đến sự bất lợi khi tham gia môi trường học thuật tại một số quốc gia phương Tây.
  • Công dân hạng hai: Khi người khác màu da bị đối xử như những người kém cỏi hơn hoặc không được đối xử bình đẳng về quyền lợi hoặc mức độ ưu tiên. Ví dụː Một người đàn ông Hàn Quốc yêu cầu đồ uống trong một quán bar bị nhân viên pha chế phớt lờ hoặc nhân viên pha chế chọn phục vụ một người đàn ông da trắng trước khi phục vụ người đàn ông Hàn Quốc.
  • Tính vô hình: Người Mỹ gốc Á được coi là vô hình hoặc đứng ngoài các cuộc thảo luận về chủng tộcphân biệt chủng tộc. Ví dụː Các cuộc thảo luận về chủng tộcHoa Kỳ loại trừ người Mỹ gốc Á bằng cách chỉ tập trung vào các vấn đề 'da trắngda màu'.

Trong một bài bình duyệt năm 2017, Scott Lilienfeld đã chỉ trích nghiên cứu về vi hiếp vì hầu như không có sự phát triển về phân loại học trong nghiên cứu đã được Sue đề xuất gần 10 năm trước đó. Trong khi thừa nhận thực tế về "sự coi thường và xúc phạm tinh vi nhắm đến nhóm thiểu số", Lilienfeld kết luận rằng ý tưởng và chương trình đánh giá khoa học của nó "quá kém phát triển về mặt khái niệmphương pháp luận để đảm bảo ứng dụng trong thực tế". Ông khuyến nghị nên bỏ thuật ngữ microaggression (vi hiếp) vì "việc sử dụng từ gốc 'aggression' trong 'microaggression' là khó hiểu và gây hiểu lầm về mặt khái niệm". Ngoài ra, ông kêu gọi tạm dừng các chương trình đào tạo về vi hiếp cho đến khi nghiên cứu sâu hơn để có thể phát triển lĩnh vực này.[17]

Chủng tộc hoặc sắc tộc

Các nhà khoa học xã hội Sue, Bucceri, Lin, Nadal và Torino (2007) đã mô tả vi hiếp là "bộ mặt mới của phân biệt chủng tộc", nói rằng bản chất của phân biệt chủng tộc đã thay đổi theo thời gian từ những biểu hiện công khai của sự thù ghét chủng tộc và tội ác do thù hận sang những biểu hiện của sự ác cảm mang tính phân biệt chủng tộc một cách tinh vi hơn, mơ hồ và thường không chủ ý. Sue cho rằng, điều này đã khiến một số người Mỹ tin sai rằng những người Mỹ không phải da trắng không còn bị phân biệt chủng tộc nữa. Một ví dụ về những biểu hiện phân biệt chủng tộc tinh vi như vậy là học sinh châu Á hoặc bị cho là "có vấn đề" hoặc bị phạt vì quá thụ động hoặc ít nói.[18][19]

Giới tính

Chủ nghĩa phân biệt giới tính biểu hiện một cách rõ ràng trong xã hội đang có xu hướng giảm đi, nhưng vẫn tồn tại dưới nhiều hình thức biểu hiện khác nhau, bất kể là mang tính tế nhị hay thiếu tế nhị.[20] Phụ nữ vẫn gặp phải những hành vi vi hiếp khiến họ cảm thấy thấp kém, bị coi thường và bị ràng buộc với những vai trò giới hạn.[21] Điều này có thể bắt gặp được tại môi trường công sở, môi trường học thuật, cũng như trong thể thao.[22] Vi hiếp dựa trên giới tính được áp dụng cho các vận động viên nữ trong các trường hợp như: khả năng của họ chỉ được so sánh với nam giới, họ bị đánh giá dựa trên "sự hấp dẫn", hay bị yêu cầu/đề nghị mặc trang phục "nữ tính" trong lúc thi đấu.[23]

Các ví dụ khác về hành vi vi hiếp có tính phân biệt giới tính nhưː gọi một ai đó bằng tên gọi có tính chất phân biệt giới tính, [người đàn ông] từ chối rửa bát vì đó là 'công việc chỉ dành cho của phụ nữ', đưa ra những lời khuyên mang tính tình dục dành với người khác mà người đó không mong muốn.[24]

Makin và Morczek cũng sử dụng thuật ngữ vi hiếp giới tính để chỉ sở thích của nam giới đối với nội dung khiêu dâm mang tính bạo lực.[25]

Các nhà xã hội học Sonny Nordmarken và Reese Kelly (2014) đã xác định các hành vi vi hiếp cụ thể đối với người chuyển giới mà họ phải đối mặt trong các cơ sở chăm sóc sức khỏe bao gồmː bệnh lý hóa, tình dục hóa; bị từ chối, vô hiệu hóa, phơi bày, cô lập, xâm nhập thân thể và ép buộc.[26]

Xu hướng tính dục

Trong các nhóm nghiên cứu, các cá nhân được xác định là song tính báo cáo về những hành vi vi hiếp nhưː bị những người khác phủ nhận hoặc bác bỏ, không chấp nhận xu hướng tính dục của họ, gây áp lực buộc họ phải thay đổi danh tính song tính, cho rằng họ quan hệ tình dục bừa bãi, và đặt câu hỏi về khả năng duy trì mối quan hệ một vợ một chồng của họ.[27]

Một số người thuộc cộng đồng LGBTQ+ cho biết đã nhận được những biểu hiện của vi hiếp ngay cả từ chính những người thuộc cộng đồng LGBTQ+.[28] Họ nói rằng việc họ bị gạt bỏ, hoặc không được chào đón hay được thấu hiểu trong cộng đồng đồng tính namđồng tính nữ là vi hiếp. [26] Roffee và Waling cho rằng các vấn đề giữa nhiều nhóm người khác nhau phát sinh là do một người thường đưa ra các giả định manh tính định kiến dựa trên kinh nghiệm cá nhân và khi họ truyền đạt những giả định đó, người tiếp nhận có thể cảm thấy rằng nó thiếu tính khách quan và là một hình thức của vi hiếp.[28]

Tính liên tầng định kiến

Những người cùng thuộc nhiều nhóm thiểu số khác nhau (ví dụ: một người đàn ông Mỹ gốc Á đồng tính nam hoặc một phụ nữ chuyển giới) cũng phải đối mặt với nhiều lớp của hành vi vi hiếp dựa trên các yếu tố được cho là "loại trừ xã hội" tương ứng.[1][29] Ví dụ, một người vừa là người đồng tính vừa mắc HIV, hay một người vừa là người dân tộc thiểu số vừa là một người lao động di cư phải chịu cùng lúc nhiều sự kỳ thị bởi cùng mang nhiều đặc tính không hợp chuẩn.[1]

Người mắc rối loạn tâm thần

Những người mắc rối loạn tâm thần cho biết họ nhận được nhiều hình thức vi hiếp một cách công khai đến từ gia đìnhbạn bè cũng như từ những người có thẩm quyền. Trong một nghiên cứu liên quan đến sinh viên đại học và người lớn đang được điều trị tại cơ sở chăm sóc cộng đồng, có năm hình thức vi hiếp đã được xác định: bị vô hiệu, giả định về sự mặc cảm, nỗi sợ bệnh tâm thần, xấu hổ vì bệnh tâm thần và bị đối xử như công dân hạng hai. Việc bị vô hiệu sẽ xảy ra khi bạn bè và các thành viên trong gia đình coi nhẹ các triệu chứng sức khỏe tâm thần. Đôi khi, bệnh nhân mắc bệnh tâm thần bị đánh đống với việc có trí thông minh thấp hơn người bình thường.[30]

Người khuyết tật

Người khuyết tật cũng đối mặt với những hành vi vi hiếp nhưː quan niệm sai lầm rằng những người khuyết tật luôn muốn hoặc yêu cầu sửa chữa khiếm khuyết, hay bị hỏi những câu hỏi thiếu tế nhị.[31][32][33]

Truyền thông

Các thành viên trong các nhóm thiểu số cũng đã mô tả những hành vi vi hiếp do các nghệ sĩ thực hiện dưới các hình thức truyền thông khác nhau, ví dụ như truyền hình, phim, nhiếp ảnh, âm nhạcvăn học. Một số nhà nghiên cứu tin rằng nội dung văn hóa như vậy không chỉ phản ánh thực tế xã hội mà còn định hình xã hội, [34] cho phép các cá nhân hấp thụ một cách không chủ đích các định kiếnthiên kiến dựa trên mức tiêu thụ phương tiện của họ.

Phân biệt tuổi tác và sự không khoan dung

Vi hiếp có thể nhắm nhắm tới những người có chung độ tuổi hoặc hệ thống đức tin. Hành vi vi hiếp là một biểu hiện của hành vi bắt nạt sử dụng sức mạnh ngôn ngữ vi mô để biểu lộ sự không khoan dung một cách tinh tế và tiến đến loại bỏ bất kỳ mục tiêu nào bằng cách biểu thị khái niệm "người khác".[35][36]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Vi hiếp http://journals.sagepub.com/doi/10.1177/0013124577... http://journals.sagepub.com/doi/10.1177/0361684313... http://journals.sagepub.com/doi/10.1177/0886109912... http://journals.sagepub.com/doi/10.1177/0886260515... http://journals.sagepub.com/doi/10.1177/1745691616... http://journals.sagepub.com/doi/10.1177/1745691619... http://journals.sagepub.com/doi/10.1177/1745691619... http://journals.sagepub.com/doi/10.1177/1745691619... http://link.springer.com/10.1007/s12129-016-9613-5 http://theconversation.com/microaggressions-arent-...